Cục Thống Kê Đồng Nai Tổ chức họp báo công bố số liệu Thống kê kinh tế – xã hội năm 2023

Chiều ngày 28/12/2023, Cục Thống kê Đồng Nai tổ chức họp báo công bố số liệu thống kê kinh tế – xã hội năm 2023. Ông Trần Quốc Tuấn, Cục trưởng Cục Thống kê Đồng Nai chủ trì buổi Họp báo.
Tham dự buổi họp báo có Lãnh đạo và chuyên viên một số Sở, ngành liên quan của tỉnh và đại diện các cơ quan truyền thông, báo chí Trung ương và Địa phương thường trú trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
Tại buổi Họp báo, ông Trần Quốc Tuấn đã thông báo một số nội dung chủ yếu về tình hình kinh tế – xã hội trên địa bàn năm 2023 như sau:
Năm 2023 thực hiện Nghị quyết 01/NQ-CP của Chính Phủ về nhiệm vụ giải pháp phát triển kinh tế – xã hội và triển khai Nghị quyết số 68/2022/QH15 của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2023; Nghị quyết sô 08/NQ-TU của Tỉnh Uỷ và Nghị quyết số 11/NQ-HDND tỉnh Đồng Nai về các giải pháp, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội tỉnh Đồng Nai năm 2023. Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã tập trung chỉ đạo triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp khắc phục khó khăn, duy trì sản xuất kinh doanh; cùng với sự nỗ lực phấn đấu của cộng đồng doanh nghiệp trong việc khắc phục khó khăn, tìm kiếm thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước để duy trì sản xuất và các chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn tỉnh đã phát huy tác dụng, hiệu quả, tạo động lực khôi phục phát triển kinh tế…đã góp phần quan trọng thúc đẩy kinh tế tăng trưởng. Tuy nhiên năm 2023, kinh tế thế giới tiếp tục diễn biến không thuận lợi do ảnh hưởng của chiến tranh, lạm phát tăng cao, suy thoái kinh tế thế giới diễn ra đã ảnh hưởng tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và đời sống xã hội của cả nước nói chung, trên địa bàn tỉnh Đồng Nai nói riêng. Tình hình sản xuất kinh doanh nói chung đã gặp không ít khó khăn, do thiếu đơn hàng sản xuất, thị trường xuất khẩu sụt giảm mạnh, tiêu thụ sản phẩm khó khăn, công nhân thiếu việc làm, thu nhập giảm v.v… vì vậy ảnh hưởng lớn đến tình hình phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn tỉnh. Các hoạt động văn hóa, xã hội và chính sách an sinh xã hội tiếp tục đẩy mạnh thực hiện và đạt được kết quả quan trọng; đời sống dân cư được quan tâm, cải thiện, đạt những kết quả tích cực. Tổng sản phẩm (GRDP) trên địa bàn tỉnh (theo giá so sánh 2010)ước đạt 246.448,8 tỷ đồng, tăng 5,3% so với cùng kỳ, mức tăng trưởng dự ước thấp hơn nhiều so với mục tiêu cả năm (Mục tiêu cả năm 2023 từ 7,5-8,5%) và thấp hơn những năm bình thường của nhiều năm qua (trừ năm 2020 và năm 2021 do dịch Covid-19) trong đó: Khu vực Nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,45%; Công nghiệp – xây dựng tăng 5,3% (trong đó ngành xây dựng tăng cao 17,2%; công nghiệp tăng 4,33%); Dịch vụ tăng 6,44% và Thuế sản phẩm tăng 4,22%. Các khu vực kinh tế đều có mức tăng trưởng tuy nhiên mức tăng trưởng của khu vực công nghiệp, xây dựng rất thấp, tăng 5,3% (ngành công nghiệp chỉ tăng 4,33% trong khi khu vực này chiếm gần 60% GRDP nên ảnh hưởng đến tôc độ tăng chung).
– Thuế sản phẩm tăng 4,22%, đóng góp 0,36 điểm phần trăm. Năm 2023 sản xuất kinh doanh gặp khó khăn nên nguồn thu thuế tăng thấp so cùng kỳ.
– Cơ cấu kinh tế năm 2023 dự ước khu vực nông lâm thủy sản chiếm 9,33%; khu vực công nghiệp xây dựng chiếm 59,47%; Dịch vụ chiếm 23,47%; Thuế chiếm 7,73%.
– GRDP bình quân đầu người năm 2023 ước đạt 139,75 triệu đồng/người tăng 4,6% so cùng kỳ; so với mục tiêu nghị quyết đề ra đạt còn thấp (Nghị quyết là 145,150 triệu đồng/người).
Các ngành sản xuất kinh doanh:
Chỉ số sản xuất công nghiệp năm 2023 tăng 5,27% so cùng kỳ đây là mức tăng thấp nhất so với nhiều năm qua (trừ năm 2020 và năm 2021 do ảnh hưởng của dịch Covid-19), trong đó ngành khai khoáng tăng 4,89%; Công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,07%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước giảm 10,1%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước tăng 4,65%. Dự tính năm 2023 có 26/27 ngành sản xuất chỉ số tăng nhưng mức tăng thấp, có ngành tăng không đáng kể. Mặc dù chỉ số sản xuất của năm 2023 tăng so năm 2022, tuy nhiên trên thực tế hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp đến cuối năm 2023 vẫn rất khó khăn, chưa có dấu hiệu tích cực hơn so với những tháng đầu năm.
Giá trị sản xuất xây dựng trên địa bàn năm 2023 (theo giá hiện hành): Ứớc đạt 78.290,7 tỷ đồng, tăng 21,41% so cùng kỳ. Trong đó: Doanh nghiệp nhà nước đạt 554,53 tỷ đồng, tăng 2,46 lần; Doanh nghiệp ngoài nhà nước đạt 55.289,27 tỷ đồng, tăng 22,06%; Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 4.292,45 tỷ đồng, tăng 10,41%; Loại hình khác đạt 18.154,51 tỷ đồng, tăng 20,42%.
Giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản năm 2023 (theo giá so sánh 2010): Ước đạt 48.874,93 tỷ đồng, tăng 3,63% so cùng kỳ. Trong đó: Giá trị sản xuất nông nghiệp ước đạt 44.380,55tỷ đồng, tăng 3,62% (trồng trọt tăng 1,65%; chăn nuôi tăng 4,88%; dịch vụ tăng 1,62%); Giá trị sản xuất lâm nghiệp ước đạt 1.816,29 tỷ đồng, tăng 2,08%; Giá trị sản xuất thủy sản ước đạt 2.678,09 tỷ đồng, tăng 5% so cùng kỳ. Năng suất, sản lượng cây trồng hầu hết tăng so cùng kỳ, đặc biệt là năng suất, sản lượng cây ăn quả có giá trị kinh tế cao tăng đáng kể do tiêu thụ sản phẩm thuận lợi. Đàn gia súc, gia cầm tăng so cùng kỳ.
Hoạt động thương mại, dịch vụ năm 2023 hoạt động khá ổn định, doanh thu bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tăng, giá các mặt hàng thiết yếu không có biến động nhiều; nguồn cung hàng hóa và dịch vụ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2023 ước đạt 262.630 tỷ đồng, tăng 12,16% so cùng kỳ. Trong đó: kinh tế nhà nước ước đạt 15.623,06 tỷ đồng, tăng 12,37%; kinh tế ngoài nhà nước ước đạt 240.212,04 tỷ đồng, tăng 11,97%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 6.795 tỷ đồng, tăng 18,44% so với cùng kỳ. Trong đó:
+ Doanh thu bán lẻ ước đạt 191.893,8 tỷ đồng, tăng 9,13% so với cùng kỳ. Một số nhóm hànghoá có mức tăng khá so cùng kỳ như: Lương thực, thực phẩm tăng 5,95%, hàng may mặc tăng 11,6%; đồ dùng, dụng cụ, thiết bị gia đìnhtăng 6,47%; Vật phẩm, văn hóa, giáo dục tăng 21,59%; xăng dầu các loại tăng 14,84%.
+ Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống ước đạt 25.516,3 tỷ đồng, tăng 21,96% so cùng kỳ. Trong đó: Doanh thu hoạt động lưu trú dự ước đạt 299 tỷ đồng, tăng 44,9%; Doanh thu dịch vụ ăn uống đạt 25.217,4 tỷ đồng, tăng 21,73% so cùng kỳ.
+ Doanh thu du lịch lữ hành ước đạt 68,2 tỷ đồng, tăng 81,12% so cùng kỳ.
Năm 2023 nhìn chung giá cả, thị trường tương đối ổn định, giá các mặt hàng thiết yếu không có biến động bất thường, nguồn cung được bảo đảm. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2023 giảm 0,15% so với tháng trước; so với tháng 12 năm trước tăng 2,36%; chỉ số giá bình quân năm 2023 tăng 2,28% so cùng kỳ.
Kim ngạch xuất, nhập khẩu năm 2023 dự ước giảm đáng kể so cùng kỳ do tình hình kinh tế thế giới suy thoái và lạm phát cao cùng với các chính sách thắt chặt tiền tệ, sức mua tại các thị trường lớn như: Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc… đều giảm khiến số lượng đơn đặt hàng giảm; các doanh nghiệp xuất khẩu thiếu hụt đơn hàng, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng không thiết yếu như: Sản xuất đồ gỗ, giày da, hàng may mặc, dệt… bên cạnh đó lượng hàng tồn kho cao tại các hệ thống bán lẻ sẽ làm giảm hoạt động sản xuất, xuất khẩu tăng chậm.
Kim ngạch xuất khẩu năm 2023 ước đạt 21.628,57 triệu USD giảm 12,08% so với cùng kỳ (Mục tiêu NQ đề ra tăng 8-10%). Trong đó: kinh tế nhà nước đạt 466,42 triệu USD, giảm 16,42%; kinh tế ngoài nhà nước đạt 5.277,4 triệu USD, giảm 8,5%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 15.884,8 triệu USD, giảm 13,08% so cùng kỳ. Thị trường xuất khẩu trong năm 2023 tập trung chủ yếu ở các nước: Hoa Kỳ đạt 6.232,4 triệu USD, chiếm 28,82%; Trung Quốc đạt 2.244 triệu USD, chiếm 10,38%; Nhật Bản đạt 2.237,6 triệu USD, chiếm 10,35%; Hàn Quốc đạt 1.210 triệu USD, chiếm 5,6%…
Kim ngạch nhập khẩunăm 2023 ước đạt 15.708,9 triệu USD, giảm 17,06% so cùng kỳ. Trong đó: Kinh tế nhà nước đạt 201,8 triệu USD, giảm 20,35%; kinh tế ngoài nhà nước đạt 2.332,6 triệu USD, giảm 37,5%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 13.174,5 triệu USD, giảm 11,9% so cùng kỳ. Thị trường nhập khẩu trong năm 2023 chủ yếu ở các nước: Trung Quốc đạt 4.322 triệu USD, chiếm 27,52%; Hàn Quốc đạt 1.946 triệu USD, chiếm 12,4%; Nhật Bản đạt 1.124 triệu USD, chiếm 7,16%; Thị trường Mỹ đạt 1.031 triệu USD, chiếm 6,57%…
Cán cân thương mại năm 2023trên địa bàn tỉnh đạt mức xuất siêu đạt 5.919,7 triệu USD, bình quân mỗi tháng xuất siêu khoảng 493,3 triệu USD.
Tổng vốn đầu tư xã hội trên địa bàn tỉnh năm 2023: Dự ước thực hiện 114.015,4 tỷ đồng, tăng 12,97% so cùng kỳ, trong đó vốn khu vực nhà nước đạt 10.644,6 tỷ đồng, tăng 19,04%; vốn ngoài nhà nước đạt 52.085 tỷ đồng, tăng 14,02%; vốn đầu tư nước ngoài đạt 48.317,3 tỷ đồng, tăng 10,17%; Vốn huy động khác đạt 1.963,7 tỷ đồng, tăng 7,43%.
Năm 2023 các hoạt động văn hóa, xã hội và chính sách an sinh xã hội tiếp tục đẩy mạnh thực hiện và đạt được kết quả quan trọng, đời sống dân cư được quan tâm và cải thiện đáng kể.
– Hoạt động thể dục thể thao: Năm 2023 các hoạt động thể dục thể thao trên địa bàn đạt thành tích khá: Tham gia 20 giải quốc tế và 02 kỳ Đại hội Thể thao Đông Nam Á (SEA Games 32 và PARA Games 12), đạt tổng cộng 37 huy chương các loại (13HCV, 18HCB, 06HCĐ); Tham gia 99 giải quốc gia và 11 giải Cụm, khu vực, mở rộng, đạt được 648 huy chương các loại (200HCV, 196HCB, 252HCĐ).
– Hoạt động Giáo dục: Năm 2023, ngành Giáo dục – đào tạo chú trọng nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục các cấp, theo đó tổ chức hướng dẫn thực hiện Chương trình giáo dục mầm non và bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn bảo chất lượng giáo dục trên địa bàn.
Tổ chức tốt các kỳ thi, trong đó có kỳ thi học sinh giỏi lớp 12 cấp tỉnh; kỳ thi học sinh giỏi quốc gia năm 2023 và tổ chức thành công kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2023, kết quả: Tỷ lệ tốt nghiệp THPT (tính cả thí sinh tự do) đạt 97,10% (tăng 0,26% so với năm 2022) trong đó khối THPT đạt 99,34%, khối GDTX đạt 87,98%.
Hoạt động Y tế: Hoạt động y tế bảo vệ chăm sóc sức khỏe cho người dân đạt nhiều kết quả tích cực. Trong năm 2023, tình hình dịch COVID-19 đã được kiểm soát tốt trên địa bàn tỉnh. Tổng số ca mắc mới từ đầu năm đến 19/12/2023 ghi nhận 2.560 ca, có 02 ca tử vong.Tỉnh tiếp tục triển khai tiêm vắc xin phòng COVID-19 cho các đối tượng theo quy định.Tính đến nay, toàn tỉnh đã thực hiện tiêm 8.286.262 liều vắc xin phòng COVID-19 cho người dân.
Bên cạnh đó công tác phòng chống dịch bệnh khác như: Sốt xuất huyết; Sởi, Tay chân miệng; Sốt rét… được Ngành y tế tập tung triển khai đồng bộ các biện pháp phòng, chống dịch bệnh như cấp hóa chất xử lý ổ dịch Sốt xuất huyết cho các huyện, tăng cường thực hiện giám sát côn trùng định kỳ. Đảm bảo đầy đủ cơ sở vật chất, vật tư y tế, hóa chất, trang thiết bị, thuốc men và chủ động giám sát thường xuyên và xử lý kịp thời tình hình dịch Sốt xuất huyết, Sởi, Tay chân miệng… trên địa bàn tỉnh.
Kết quả, năm 2023 ghi nhận tình hình mắc:Sốt xuất huyết ghi nhận 4.791 ca mắc, giảm 79,83% so với cùng kỳ năm 2022, trong đó có 05 ca tử vong, giảm 73,68% so với cùng kỳ. Sởi ghi nhận 03 ca, giảm 40%, không ghi nhận ca tử vong.Taychân miệng ghi nhận 10.610 ca, tăng 52,77%, không ghi nhận ca tử vong. Sốt rét ghi nhận mắc 02 ca, bằng so với cùng kỳ. Dịch Đậu mùa khỉ ghi nhận 01 ca tại Biên Hòa. Uốn ván ghi nhận 08 ca, tăng 07 ca so cùng kỳ 2022. Các dịch bệnh khác như Cúm H5N1, H7N9, Bệnh do liên cầu lợn ở người, Ho gà…không ghi nhận trường hợp mắc.
Giải quyết việc làm: Năm 2023 phối hợp các sở, ban, ngành và các doanh nghiệp dịch vụ việc làm giải quyết việc làm cho 80.292 lượt người, đạt 100,37% kế hoạch năm, giảm 0,95% so với cùng kỳ năm 2022.
Đào tạo nghề: Tính đến ngày 15/11/2023, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh tuyển mới đào tạo cho 72.738 học viên, đạt 101,03% kế hoạch năm, giảm 5,79% so với cùng kỳ. Số học viên tại các trường và cơ sở giáo dục nghề nghiệp đã tốt nghiệp và có chứng chỉ 66.285 học viên, đạt 101,02% so với kế hoạch năm, tăng 1,18% so với cùng kỳ.
Dân số: Ước tính dân số trung bình năm 2023 của tỉnh Đồng Nai là 3.310,86 nghìn người, tăng 1,69% so cùng kỳ, trong đó nam là: 1.649,81 ngàn người, tăng 1,7% và chiếm 49,83%; nữ là: 1.661,05nghìn người, tăng 1,68% và chiếm 50,17%. Chia theo khu vực: thành thị 1.508,36 nghìn người, tăng 2,59% và chiếm 45,56% nông thôn: 1.802,5nghìn người, tăng 0,95% và chiếm 54,44%.
Lao động: Số lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc năm 2023 dự ước 1.750 nghìn người, tăng 0,2%, trong đó lao động trong ngành công nghiệp – xây dựng là 1.001 nghìn người, tăng 1,26%; lao động ngành dịch vụ là 547,75 nghìn người, tăng 1,62% so cùng kỳ. Đây là 2 ngành có nhu cầu sử dụng nhiều lao động và có mức thu nhập từ tiền lương, tiền công cao hơn lao động khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản.
Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh gặp khó khăn, thiếu đơn hàng, các doanh nghiệp buộc phải cho người lao động nghỉ luân phiên, giãn việc, thậm chí cho thôi việc, một số doanh nghiệp phải tạm ngưng hoạt động hoặc giải thể. Dẫn tới tình trạng người lao động mất việc làm, giảm thu nhập. Trong quý IV/2023 số lao động nghỉ giãn việc là 29.656 người; mất việc, thôi việc có 265 người. Lũy kế cả năm 2023, có 80.810 người nghỉ giãn việc và 39.611 người bị mất việc, thôi việc.
Tình hình kinh tế – xã hội năm 2023 chịu tác động ảnh hưởng tình hình thế giới tiếp tục biến động phức tạp, chiến tranh Dải Gaza bùng phát, cuộc chiến giữa Nga và Ucraina vẫn diễn biến hết sức phức tạp, đặc biệt trên bán đảo Triều Tiên ngày càng rất nguy hiểm bên bờ vực chiến tranh…. Một số nền kinh tế lớn như: Mỹ, các nước khối EU… tiếp tục suy giảm, tăng trưởng chậm lại, tình trạng lạm phát gia tăng đối diện với nguy cơ suy thoái kinh tế… trong bối cảnh đó, với sự chỉ đạo quyết liệt của Tỉnh ủy, UBND tỉnh và sự phối hợp đồng bộ của các cấp, các ngành, địa phương, sự phấn đấu nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp và người dân trong tỉnh nên kinh tế – xã hội tỉnh Đồng Nai năm 2023 đạt kết quả khá tích cực: Tăng trưởng GRDP trên địa bàn đạt 5,3% mặc dù thấp hơn so với mục tiêu nghị quyết đề ra nhưng trong bối cảnh rất khó khăn đạt mức tăng trưởng này là kết quả tích cực; Sản xuất công nghiệp gặp nhiều khó khăn nhưng vẫn duy trì sản xuất và đạt mức tăng trưởng. Dự ước chỉ số sản xuất công nghiệp năm 2023 tăng 5,27% so cùng kỳ; sản xuất nông lâm nghiệp và thủy sản tiếp tục phát triển ổn định; giá trị sản xuất nông lâm nghiệp và thủy năm 2023 tăng 3,63% so cùng kỳ; hoạt động thượng mại, dịch vụ có mức tăng trưởng khá, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tăng 12,16%; Lĩnh vực tài chính, tín dụng ổn định, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội. Các hoạt động văn hóa, xã hội được quan tâm thực hiện đạt kết quả tốt, đảm bảo an sinh xã hội, đời sống nhân dân tiếp tục được chú trọng.
Trong buổi họp báo, đại diện Cục Thống kê đã giải đáp các câu hỏi của các phóng viên, nhà báo và các đại biểu về những vấn đề liên quan đến tình hình kinh tế – xã hội năm 2023 trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, Một số chỉ tiêu tăng như: Tổng sản phẩm (GRDP) trên địa bàn so cả nước và khu vực Đông Nam bộ; Chỉ số sản xuất công nghiệp; Giá trị sản xuất xây dựng; Chỉ số giá tiêu dùng; Kim ngạch xuất khẩu; Hoạt động thương mại; Sản xuất nông nghiệp tăng; Kết quả thu hút đầu tư FDI; Công tác triển khai xây dựng hạ tầng các khu công nghiệp mới được phê duyệt để thu hút dự án đầu tư; Tình hình thực hiện vốn đầu tư công … Tình hình lao động của các doanh nghiệp trong những tháng cuối năm 2023 trong bối cảnh thiếu đơn hàng sản xuất.
Một số hình ảnh tại buổi họp báo.